Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ấn của Đức Chúa Trời”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
| (Không hiển thị 11 phiên bản của 3 người dùng ở giữa) | |||
| Dòng 1: | Dòng 1: | ||
[[ | <!-- interlanguage:start -->[[ko:하나님의 인]][[en:Seal of God]][[es:El sello de Dios]][[ne:परमेश्वरको छाप]][[pt:O Selo de Deus]]<!-- interlanguage:end --><!-- interlanguage:start -->[[ko:하나님의 인]][[en:Seal of God]][[es:El sello de Dios]][[ne:परमेश्वरको छाप]][[pt:O Selo de Deus]]<!-- interlanguage:end -->{{그림 |최후의 만찬 유월절.jpg|너비= 300px |정렬=오른쪽섬네일 |타이틀=Cảnh lễ tiệc thánh Lễ Vượt Qua nổi tiếng với tên gọi “Bữa ăn tối cuối cùng”}} | ||
'''Ấn của Đức Chúa Trời''' xuất hiện trong lời tiên tri ở sách [[Khải Huyền]] chương 7 của [[Kinh Thánh Tân Ước]]. [[Giăng (sứ đồ)|Sứ đồ Giăng]] đã nhìn thấy và ghi chép về sự mặc thị rằng ấn của Đức Chúa Trời sẽ được đóng trên trán những người dân của Đức Chúa Trời trước khi đại tai vạ xảy đến. Nói một cách đơn giản thì ấn của Đức Chúa Trời là con dấu của Đức Chúa Trời.<ref>{{Chú thích web |url=https://www.dictionary.com/browse/seal |title= Seal|website=Dictionary.com |quote= Vật dụng được làm ra để đóng dấu trên giấy tờ, có khắc tên của cá nhân, đoàn thể, quan chức v.v... lên gỗ, xương, sừng, thủy tinh, vàng v.v... nhằm lấy làm dấu hiệu nhất định = Con dấu. |url-status=live}}</ref> | '''Ấn của Đức Chúa Trời''' xuất hiện trong lời tiên tri ở sách [[Khải Huyền]] chương 7 của [[Kinh Thánh Tân Ước]]. [[Giăng (sứ đồ)|Sứ đồ Giăng]] đã nhìn thấy và ghi chép về sự mặc thị rằng ấn của Đức Chúa Trời sẽ được đóng trên trán những người dân của Đức Chúa Trời trước khi đại tai vạ xảy đến. Nói một cách đơn giản thì ấn của Đức Chúa Trời là con dấu của Đức Chúa Trời.<ref>{{Chú thích web |url=https://www.dictionary.com/browse/seal |title= Seal|website=Dictionary.com |quote= Vật dụng được làm ra để đóng dấu trên giấy tờ, có khắc tên của cá nhân, đoàn thể, quan chức v.v... lên gỗ, xương, sừng, thủy tinh, vàng v.v... nhằm lấy làm dấu hiệu nhất định = Con dấu. |url-status=live}}</ref> | ||
| Dòng 13: | Dòng 13: | ||
Trong lịch sử đã xảy ra hai cuộc đại chiến thế giới. Cuộc chiến mà bốn vị thiên sứ cầm lại trong Khải Huyền chương 7 là [https://www.britannica.com/event/World-War-II Đại Chiến Thế Giới II (1939-1945)]. Sách Khải Huyền chương 6 đã chứng minh điều này. | Trong lịch sử đã xảy ra hai cuộc đại chiến thế giới. Cuộc chiến mà bốn vị thiên sứ cầm lại trong Khải Huyền chương 7 là [https://www.britannica.com/event/World-War-II Đại Chiến Thế Giới II (1939-1945)]. Sách Khải Huyền chương 6 đã chứng minh điều này. | ||
{{인용문5 |내용=Tôi nhìn xem, khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, thì có một cơn động đất lớn; mặt trời bèn trở nên tối tăm như túi lông đen, cả mặt trăng trở nên như huyết. Các vì sao trên trời sa xuống đất, như những trái xanh của một cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_6장 Khải Huyền 6:12–13]}} | {{인용문5 |내용=Tôi nhìn xem, khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, thì có một cơn động đất lớn; mặt trời bèn trở nên tối tăm như túi lông đen, cả mặt trăng trở nên như huyết. Các vì sao trên trời sa xuống đất, như những trái xanh của một cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_6장 Khải Huyền 6:12–13]}} | ||
Các vì sao trên trời và trái của [[cây vả]] trong Kinh Thánh chỉ về dân tộc Ysơraên.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Sáng_thế_ký/Chương_15 |title=Sáng Thế Ký 15:5 |quote= Ðoạn, Ngài dẫn người [Ápraham] ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lu-ca/Chương_13 |title=Luca 13:7 |quote= bèn nói cùng kẻ trồng nho rằng: Kìa đã ba năm nay ta đến hái trái nơi cây vả nầy mà không thấy: hãy đốn nó đi; cớ sao nó choán đất vô ích?|url-status=live}}</ref> Các vì sao trên trời sa xuống đất giống như những trái của cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống nghĩa là rất nhiều người Giuđa sẽ hy sinh trong cuộc chiến tranh lớn này. Trong Đại Chiến Thế Giới II, Đức Quốc xã đã coi người Giuđa là một chủng tộc thấp kém và cưỡng chế họ đến các khu ghetto<ref>{{Chú thích web |url=https://www.britannica.com/topic/ghetto |title= ghetto|website=Britannica |quote= Khu vực cư trú được lập theo luật để người Giuđa sống tập trung vào ngày xưa. |url-status=live}}</ref> và các trại tập trung, đồng thời tàn sát người Giuđa không phân biệt già trẻ trai gái với danh nghĩa thanh lọc sắc tộc. Số người bị tàn sát lên đến 6 triệu người, bao gồm 1,5 triệu trẻ em.<ref>United States Holocaust Memorial Museum, [https://encyclopedia.ushmm.org/content/ | Các vì sao trên trời và trái của [[cây vả]] trong Kinh Thánh chỉ về dân tộc Ysơraên.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Sáng_thế_ký/Chương_15 |title=Sáng Thế Ký 15:5 |quote= Ðoạn, Ngài dẫn người [Ápraham] ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Lu-ca/Chương_13 |title=Luca 13:7 |quote= bèn nói cùng kẻ trồng nho rằng: Kìa đã ba năm nay ta đến hái trái nơi cây vả nầy mà không thấy: hãy đốn nó đi; cớ sao nó choán đất vô ích?|url-status=live}}</ref> Các vì sao trên trời sa xuống đất giống như những trái của cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống nghĩa là rất nhiều người Giuđa sẽ hy sinh trong cuộc chiến tranh lớn này. Trong Đại Chiến Thế Giới II, Đức Quốc xã đã coi người Giuđa là một chủng tộc thấp kém và cưỡng chế họ đến các khu ghetto<ref>{{Chú thích web |url=https://www.britannica.com/topic/ghetto |title= ghetto|website=Britannica |quote= Khu vực cư trú được lập theo luật để người Giuđa sống tập trung vào ngày xưa. |url-status=live}}</ref> và các trại tập trung, đồng thời tàn sát người Giuđa không phân biệt già trẻ trai gái với danh nghĩa thanh lọc sắc tộc. Số người bị tàn sát lên đến 6 triệu người, bao gồm 1,5 triệu trẻ em.<ref>United States Holocaust Memorial Museum, [https://encyclopedia.ushmm.org/content/en/article/documenting-numbers-of-victims-of-the-holocaust-and-nazi-persecution "Ghi chép về số nạn nhân của cuộc thảm sát Holocaust và Đức Quốc Xã"], 《Bách khoa toàn thư Holocaust》</ref> | ||
Trong Khải Huyền chương 7, công việc đóng ấn của Đức Chúa Trời được bắt đầu sau khi các thiên sứ cầm bốn hướng gió lại, tức là sau năm 1945, khi Đại Chiến Thế Giới II kết thúc. | Trong Khải Huyền chương 7, công việc đóng ấn của Đức Chúa Trời được bắt đầu sau khi các thiên sứ cầm bốn hướng gió lại, tức là sau năm 1945, khi Đại Chiến Thế Giới II kết thúc. | ||
| Dòng 21: | Dòng 21: | ||
{{인용문5 |내용=Tôi lại thấy một vị thiên sứ khác, từ '''phía mặt trời mọc''' mà lên, cầm '''ấn của Ðức Chúa Trời''' hằng sống. Người cả tiếng kêu bốn vị thiên sứ đã được quyền làm hại đất cùng biển, và bảo rằng: Chớ làm hại đất, biển và cây cối, cho đến chừng nào chúng ta đã đóng ấn trên trán những tôi tớ Ðức Chúa Trời chúng ta. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_7 Khải Huyền 7:2–3]}} | {{인용문5 |내용=Tôi lại thấy một vị thiên sứ khác, từ '''phía mặt trời mọc''' mà lên, cầm '''ấn của Ðức Chúa Trời''' hằng sống. Người cả tiếng kêu bốn vị thiên sứ đã được quyền làm hại đất cùng biển, và bảo rằng: Chớ làm hại đất, biển và cây cối, cho đến chừng nào chúng ta đã đóng ấn trên trán những tôi tớ Ðức Chúa Trời chúng ta. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/Khải_Huyền/Chương_7 Khải Huyền 7:2–3]}} | ||
Nơi mặt trời mọc trong Khải Huyền chương 7 chỉ về Đại Hàn Dân Quốc, đất nước đầu cùng đất phương đông gắn với lục địa tính từ đảo Bátmô, nơi sứ đồ Giăng được nhận sự mặc thị. Trong rất nhiều đất nước ở phương đông, Đại Hàn Dân Quốc là nơi mặt trời mọc đã được tiên tri trong Kinh Thánh sở dĩ là vì “ấn của Đức Chúa Trời” đã xuất hiện tại Đại Hàn Dân Quốc.<br> | Nơi mặt trời mọc trong Khải Huyền chương 7 chỉ về Đại Hàn Dân Quốc, đất nước đầu cùng đất phương đông gắn với lục địa tính từ đảo Bátmô, nơi sứ đồ Giăng được nhận sự mặc thị. Trong rất nhiều đất nước ở phương đông, Đại Hàn Dân Quốc là nơi mặt trời mọc đã được tiên tri trong Kinh Thánh sở dĩ là vì “ấn của Đức Chúa Trời” đã xuất hiện tại Đại Hàn Dân Quốc.<br> | ||
[[file: | [[file:밧모-대한민국 화살표_vi.png|400px|thumb|thế=Đại Hàn Dân Quốc nằm ở đầu cùng đất phương đông từ Ysơraên]] | ||
==Ấn của Ðức Chúa Trời: Lễ Vượt Qua== | ==Ấn của Ðức Chúa Trời: Lễ Vượt Qua== | ||
| Dòng 40: | Dòng 40: | ||
Ba năm sau, quân đội Assyria (sau đây gọi là [[Asiri]]) đã vây hãm thành Samari, là thủ đô của Bắc Ysơraên. Asiri là cường quốc đã chinh phục các nước xung quanh bờ biển Địa Trung Hải và khu vực Tiểu Á. Sau 3 năm vây hãm, [[Samari]] đã bị chiếm lấy, hàng triệu người chết và hàng trăm nghìn người bị bắt làm phu tù.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_17 |title=II Các Vua 17:4–6 |quote=Nhưng vua Asiri thấy Ôsê toan mưu phản; vì Ôsê có sai sứ giả đến Sô, vua Êdíptô, và không nộp thuế cho vua Asiri như người hằng năm đã làm; vua Asiri bèn bắt người xiềng lại, và hạ ngục. Đoạn, vua Asiri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Samari trong ba năm. Năm thứ chín đời Ôsê, vua Asiri hãm lấy Samari, đem dân Ysơraên sang qua Asiri, lập họ ở tại Chala và trên bờ Chabo, sông của Gôxan, cùng trong các thành nước Mêđi.|url-status=live}}</ref> [[Vương quốc Bắc Ysơraên]] đã hoàn toàn bị diệt vong vào khoảng năm 721 TCN. Sách [[II Các Vua]] giải thích nguyên nhân cơ bản khiến Bắc Ysơraên bị diệt vong là vì họ đã phản bội [[giao ước của Đức Chúa Trời]]. | Ba năm sau, quân đội Assyria (sau đây gọi là [[Asiri]]) đã vây hãm thành Samari, là thủ đô của Bắc Ysơraên. Asiri là cường quốc đã chinh phục các nước xung quanh bờ biển Địa Trung Hải và khu vực Tiểu Á. Sau 3 năm vây hãm, [[Samari]] đã bị chiếm lấy, hàng triệu người chết và hàng trăm nghìn người bị bắt làm phu tù.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_17 |title=II Các Vua 17:4–6 |quote=Nhưng vua Asiri thấy Ôsê toan mưu phản; vì Ôsê có sai sứ giả đến Sô, vua Êdíptô, và không nộp thuế cho vua Asiri như người hằng năm đã làm; vua Asiri bèn bắt người xiềng lại, và hạ ngục. Đoạn, vua Asiri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Samari trong ba năm. Năm thứ chín đời Ôsê, vua Asiri hãm lấy Samari, đem dân Ysơraên sang qua Asiri, lập họ ở tại Chala và trên bờ Chabo, sông của Gôxan, cùng trong các thành nước Mêđi.|url-status=live}}</ref> [[Vương quốc Bắc Ysơraên]] đã hoàn toàn bị diệt vong vào khoảng năm 721 TCN. Sách [[II Các Vua]] giải thích nguyên nhân cơ bản khiến Bắc Ysơraên bị diệt vong là vì họ đã phản bội [[giao ước của Đức Chúa Trời]]. | ||
{{인용문5 |내용=Xảy ra năm thứ tư đời Êxêchia, nhằm năm thứ bảy đời Ôsê, con trai Êla, vua Ysơraên, thì Sanhmanasa, vua Asiri, đi lên đánh Samari và vây nó. Cuối ba năm, người hãm lấy: ấy vậy nhằm năm thứ sáu đời Êxêchia, năm thứ chín đời Ôsê, vua Ysơraên, thì Samari bị chiếm lấy... ấy vì chúng không có vâng theo lời phán của Giêhôva Ðức Chúa Trời mình, nhưng bội giao ước Ngài, không khứng nghe, và chẳng làm theo các điều mà Môise, tôi tớ của Ðức Giêhôva, đã truyền cho. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_18 II Các Vua 18:9–12]}} | {{인용문5 |내용=Xảy ra năm thứ tư đời Êxêchia, nhằm năm thứ bảy đời Ôsê, con trai Êla, vua Ysơraên, thì Sanhmanasa, vua Asiri, đi lên đánh Samari và vây nó. Cuối ba năm, người hãm lấy: ấy vậy nhằm năm thứ sáu đời Êxêchia, năm thứ chín đời Ôsê, vua Ysơraên, thì Samari bị chiếm lấy... ấy vì chúng không có vâng theo lời phán của Giêhôva Ðức Chúa Trời mình, nhưng bội giao ước Ngài, không khứng nghe, và chẳng làm theo các điều mà Môise, tôi tớ của Ðức Giêhôva, đã truyền cho. |출처=[https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_18 II Các Vua 18:9–12]}} | ||
[[File:Map of Assyria.png|thumb|300px|Lãnh thổ của Asiri bao quanh vương quốc Giuđa]] | [[File:Map of Assyria.png|thumb|300px|left|Lãnh thổ của Asiri bao quanh vương quốc Giuđa]] | ||
Vào năm thứ 14 đời vua Êxêchia, Sanchêríp, vua của Asiri đem quân đến chiếm các thành kiên cố của Nam Giuđa. Cuộc bao vây thu hẹp đến [[Giêrusalem]] là thủ đô của Nam Giuđa.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_18 |title=II Các Vua 18:13–17 |quote=Năm thứ mười bốn đời Êxêchia, Sanchêríp, vua Asiri, đến đánh các thành kiên cố của Giuđa và hãm lấy nó... Song, vua Asiri ở Laki sai Tạttan, Rápsari, và Rápsakê, đem theo một đạo binh mạnh, đến Giêrusalem đánh vua Êxêchia. Chúng đi lên Giêrusalem...|url-status=live}}</ref><ref>Jean-Pierre Isbouts, 《Kinh Thánh và lịch sử》, dịch bởi Lee Sang Won, Kim Ngưu, 2010, trang 221, <q>Giờ đây vương quốc Giuđa ở trong tình huống bị cô lập triệt để. Sanchêríp đã từ từ áp bức và tiến vào Giêrusalem. Những đồn lũy bao xung quanh Giêrusalem lần lượt bị chiếm đóng. Những thành lũy kiên cố của vương quốc Giuđa hết thảy đều bị chiếm lấy (II Các Vua 18:13). Kể cả trong các ghi chép trên cột đất sét hình lục giác của Sanchêríp cũng giải thích rằng “Vì Êxêchia không chịu khuất phục ta, nên ta đã bao vây 46 nơi gồm làng mạc, pháo đài và đô thành vững mạnh của người. Ta đã tấn công và chinh phục bằng bộ binh đi trên đoạn đường dốc và dùng búa để phá vỡ tường thành”.</q></ref> Sanchêríp và các tôi tớ của ông đã cười nhạo người dân Nam Giuđa yếu đuối và giễu cợt Đức Chúa Trời mà người dân tin cậy.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Sử_ký/Chương_32 |title=II Sử Ký 32:10–11 |quote=Sanchêríp, vua Asiri, nói như vầy: Các ngươi nương cậy điều gì, mà chịu ở vây trong thành Giêrusalem như thế? Êxêchia nói rằng: Giêhôva Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua Asiri, ấy há chẳng phải người dỗ dành các ngươi đặng phó các ngươi đói khát cho chết hay sao?|url-status=live}}</ref> | Vào năm thứ 14 đời vua Êxêchia, Sanchêríp, vua của Asiri đem quân đến chiếm các thành kiên cố của Nam Giuđa. Cuộc bao vây thu hẹp đến [[Giêrusalem]] là thủ đô của Nam Giuđa.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_18 |title=II Các Vua 18:13–17 |quote=Năm thứ mười bốn đời Êxêchia, Sanchêríp, vua Asiri, đến đánh các thành kiên cố của Giuđa và hãm lấy nó... Song, vua Asiri ở Laki sai Tạttan, Rápsari, và Rápsakê, đem theo một đạo binh mạnh, đến Giêrusalem đánh vua Êxêchia. Chúng đi lên Giêrusalem...|url-status=live}}</ref><ref>Jean-Pierre Isbouts, 《Kinh Thánh và lịch sử》, dịch bởi Lee Sang Won, Kim Ngưu, 2010, trang 221, <q>Giờ đây vương quốc Giuđa ở trong tình huống bị cô lập triệt để. Sanchêríp đã từ từ áp bức và tiến vào Giêrusalem. Những đồn lũy bao xung quanh Giêrusalem lần lượt bị chiếm đóng. Những thành lũy kiên cố của vương quốc Giuđa hết thảy đều bị chiếm lấy (II Các Vua 18:13). Kể cả trong các ghi chép trên cột đất sét hình lục giác của Sanchêríp cũng giải thích rằng “Vì Êxêchia không chịu khuất phục ta, nên ta đã bao vây 46 nơi gồm làng mạc, pháo đài và đô thành vững mạnh của người. Ta đã tấn công và chinh phục bằng bộ binh đi trên đoạn đường dốc và dùng búa để phá vỡ tường thành”.</q></ref> Sanchêríp và các tôi tớ của ông đã cười nhạo người dân Nam Giuđa yếu đuối và giễu cợt Đức Chúa Trời mà người dân tin cậy.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Sử_ký/Chương_32 |title=II Sử Ký 32:10–11 |quote=Sanchêríp, vua Asiri, nói như vầy: Các ngươi nương cậy điều gì, mà chịu ở vây trong thành Giêrusalem như thế? Êxêchia nói rằng: Giêhôva Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua Asiri, ấy há chẳng phải người dỗ dành các ngươi đặng phó các ngươi đói khát cho chết hay sao?|url-status=live}}</ref> | ||
Êxêchia đã sai các [[trưởng lão]] đến gặp đấng tiên tri Êsai để cầu hỏi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban lời hứa cứu rỗi cho nước Nam Giuđa rằng “Vua Asiri sẽ không vào thành nầy, cũng chẳng bắn một mũi tên nào vào thành, những quân cầm khiên cũng không tiếp cận được thành, cũng không đắp đồn lũy xung quanh thành và chúng sẽ trở về theo con đường mà chúng đã đi đến”.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_19 |title=II Các Vua 19:32–33 |quote= Bởi cớ đó, Đức Giêhôva phán về vua Asiri như vầy: Nó sẽ không vào thành này, chẳng xạ tên trong nó, cũng chẳng kéo đến giơ khiên lên trước mặt nó, và chẳng đắp lũy nghịch nó. Đức Giêhôva phán: Nó sẽ trở về theo con đường nó đã đi đến, không vào trong thành nầy.|url-status=live}}</ref> Theo lời ấy, đạo quân Asiri đã bị tiêu diệt chỉ sau một đêm. | Êxêchia đã sai các [[trưởng lão]] đến gặp đấng tiên tri Êsai để cầu hỏi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban lời hứa cứu rỗi cho nước Nam Giuđa rằng “Vua Asiri sẽ không vào thành nầy, cũng chẳng bắn một mũi tên nào vào thành, những quân cầm khiên cũng không tiếp cận được thành, cũng không đắp đồn lũy xung quanh thành và chúng sẽ trở về theo con đường mà chúng đã đi đến”.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/II_Các_Vua/Chương_19 |title=II Các Vua 19:32–33 |quote= Bởi cớ đó, Đức Giêhôva phán về vua Asiri như vầy: Nó sẽ không vào thành này, chẳng xạ tên trong nó, cũng chẳng kéo đến giơ khiên lên trước mặt nó, và chẳng đắp lũy nghịch nó. Đức Giêhôva phán: Nó sẽ trở về theo con đường nó đã đi đến, không vào trong thành nầy.|url-status=live}}</ref> Theo lời ấy, đạo quân Asiri đã bị tiêu diệt chỉ sau một đêm. | ||