Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mẹ trên trời”

Qhdud7123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
 
(Không hiển thị 5 phiên bản của 4 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
'''Mẹ trên trời''' (Heavenly Mother) đồng nghĩa với '''[[Đức Chúa Trời Mẹ]]''' (God the Mother), cùng với [[Ðức Chúa Trời Cha|Cha trên trời (Đức Chúa Trời Cha)]] (Heavenly Father, God the Father) là Đấng Cứu Chúa ban sự sống đời đời cho nhân loại. [[Kinh Thánh]] cho chúng ta biết rằng loài người không chỉ có xác thịt mà còn có [[linh hồn]] nữa, và linh hồn cũng có quê hương và cha mẹ. [[Nước Thiên Đàng|Vương quốc trên trời]] là quê hương của linh hồn mà những thánh đồ được cứu rỗi sẽ đi trong tương lai, cũng là nơi họ có thể sống cùng Cha trên trời và Mẹ trên trời. Vào thời đại Đức Thánh Linh là thời kỳ cuối cùng của công cuộc cứu chuộc, theo những lời tiên tri trong [[Kinh Thánh]] thì Mẹ trên trời, Đấng chưa được bày tỏ cho đến giờ sẽ xuất hiện.  
<!-- interlanguage:start -->[[ko:하늘 어머니]][[en:Heavenly Mother]][[es:La Madre celestial]]<!-- interlanguage:end -->'''Mẹ trên trời''' (Heavenly Mother) đồng nghĩa với '''[[Đức Chúa Trời Mẹ]]''' (God the Mother), cùng với [[Ðức Chúa Trời Cha|Cha trên trời]] (Heavenly Father, God the Father) là Đấng Cứu Chúa ban sự sống đời đời cho nhân loại. [[Kinh Thánh]] cho chúng ta biết rằng loài người không chỉ có xác thịt mà còn có [[linh hồn]] nữa, và linh hồn cũng có quê hương và cha mẹ. [[Nước Thiên Đàng|Vương quốc trên trời]] là quê hương của linh hồn mà những thánh đồ được cứu rỗi sẽ đi trong tương lai, cũng là nơi họ có thể sống cùng Cha trên trời và Mẹ trên trời. Vào thời đại Đức Thánh Linh là thời kỳ cuối cùng của công cuộc cứu chuộc, theo những lời tiên tri trong [[Kinh Thánh]] thì Mẹ trên trời, Đấng chưa được bày tỏ cho đến giờ sẽ xuất hiện.  


== Vương quốc trên trời, quê hương của linh hồn ==
== Vương quốc trên trời, quê hương của linh hồn ==
[[File:Heavens Above Her.jpg|thumb | px |Giống như có quê hương phần xác thì cũng có quê hương phần linh hồn.]]
[[File:Heavens Above Her.jpg|thumb | px |Giống như có quê hương phần xác thì cũng có quê hương phần linh hồn.]]
Có quê hương mà phần xác được sinh ra, và cũng có quê hương mà linh hồn được sinh ra.<ref>{{인용 |url= |title=본향(本響) |website= |publisher=CLP 성경사전  기독교문사 |date= |year=2013 |author= 550 |series= |isbn= |quote=고향의 다른 표현(민 22:5; 왕상 22:36; 잠 27:8; 렘 42:12). 히브리서에서는 인류의 진정한 고향, 더 좋은 하나님의 도성이란 의미로 사용되고 있다. 헬라어 '파트리스'는 πατήρ(파테르: 아버지)에서 온 말이다.}}</ref> Quê hương của linh hồn là vương quốc trên trời. Xác thịt loài người được sinh ra trên trái đất này rồi sau đó biến mất ở trái đất này, còn linh hồn đến từ nơi Đức Chúa Trời sẽ trở về với [[Đức Chúa Trời]].<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Truy%E1%BB%81n_%C4%91%E1%BA%A1o/12 |title=Truyền Đạo 12:7 |publisher= |quote= và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa, là Đấng đã ban nó.|url-status=live}}</ref> Sự ra đời của linh hồn và xác thịt không phải là đồng thời. Linh hồn đã được tạo ra trên trời, trước khi xuống trái đất và mang lấy xác thịt. Nếu xem những ghi chép của [[Salômôn]] và Gióp, là ký giả của [[Kinh Thánh Cựu Ước]], chúng ta có thể thấy rằng linh hồn của họ đã tồn tại trước khi trái đất được dựng nên.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%C3%A2m_ng%C3%B4n/Ch%C6%B0%C6%A1ng_8 |title=Châm Ngôn 8:22-30 |publisher= |quote= Trong buổi Ðức Giêhôva khởi cuộc tạo hóa, về thời thái cổ, trước khi chưa dựng nên muôn vật thì Ngài đã có ta (Salômôn). Ta đã được lập từ trước vô cùng, từ khi nguyên thủy, trước khi dựng nên trái đất. Lúc chưa có vực sâu, chưa có nguồn chảy nước nhiều, thì ta đã sanh ra rồi. Trước khi núi non chưa lập nên, và các gò nổng chưa có; trước khi Ðức Giêhôva chưa có dựng nên đất, đồng ruộng, và tro bụi đầu tiên của thế gian, thì ta đã sanh ra rồi.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%C3%B3p/Ch%C6%B0%C6%A1ng_38 |title=Gióp 38:1-7 |publisher= |quote= Khi ta (Đức Chúa Trời) đặt nền trái đất, thì ngươi (Gióp) ở đâu? Nếu ngươi thông sáng, hãy tỏ bày đi.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%C3%B3p/Ch%C6%B0%C6%A1ng_38 |title=Gióp 38:21 |publisher= |quote= Không sai, ngươi (Gióp) biết mà! vì ngươi đã sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy làm nhiều thay|url-status=live}}</ref> Không chỉ riêng Salômôn và Gióp mà tất cả mọi người sinh ra trên trái đất này đều ở trên lập trường giống như vậy. Thế giới này giống như nơi trú ngụ tạm thời, khi linh hồn mặc xác thịt khoảng 100 năm rồi rời đi.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thi%C3%AAn/Ch%C6%B0%C6%A1ng_90 |title=Thi Thiên 90:10 |publisher= |quote= Tuổi tác của chúng tôi đến được bảy mươi, Còn nếu mạnh khỏe thì đến tám mươi; Song sự kiêu căng của nó bất quá là lao khổ và buồn thảm, Vì đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.|url-status=live}}</ref> [[Đavít]] và [[Giacốp]] cũng miêu tả cuộc sống trên trái đất này giống như kẻ khách và bộ hành trên đất.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1ng_th%E1%BA%BF_k%C3%BD/Ch%C6%B0%C6%A1ng_47 |title=Sáng Thế Ký 47:8-9 |publisher= |quote= Pharaôn hỏi Giacốp rằng: Ngươi hưởng thọ được bao nhiêu tuổi? Giacốp tâu rằng: Những năm tôi sống ở đời phiêu lưu hết thảy là một trăm ba mươi năm.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thi%C3%AAn/Ch%C6%B0%C6%A1ng_119 |title=Thi Thiên 119:54 |publisher= |quote= Các luật lệ Chúa làm bài hát tôi Tại nhà tôi ở làm khách lạ|url-status=live}}</ref>
Có quê hương mà phần xác được sinh ra, và cũng có quê hương mà linh hồn được sinh ra.<ref>{{인용 |url=https://biblehub.com/greek/3968.htm |title=3968. patris |website=Bible Hub |publisher= |date= |year= |author= |series= |isbn= |quote= }}</ref> Quê hương của linh hồn là vương quốc trên trời. Xác thịt loài người được sinh ra trên trái đất này rồi sau đó biến mất ở trái đất này, còn linh hồn đến từ nơi Đức Chúa Trời sẽ trở về với [[Đức Chúa Trời]].<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Truy%E1%BB%81n_%C4%91%E1%BA%A1o/12 |title=Truyền Đạo 12:7 |publisher= |quote= và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa, là Đấng đã ban nó.|url-status=live}}</ref> Sự ra đời của linh hồn và xác thịt không phải là đồng thời. Linh hồn đã được tạo ra trên trời, trước khi xuống trái đất và mang lấy xác thịt. Nếu xem những ghi chép của [[Salômôn]] và Gióp, là ký giả của [[Kinh Thánh Cựu Ước]], chúng ta có thể thấy rằng linh hồn của họ đã tồn tại trước khi trái đất được dựng nên.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%C3%A2m_ng%C3%B4n/Ch%C6%B0%C6%A1ng_8 |title=Châm Ngôn 8:22-30 |publisher= |quote= Trong buổi Ðức Giêhôva khởi cuộc tạo hóa, về thời thái cổ, trước khi chưa dựng nên muôn vật thì Ngài đã có ta (Salômôn). Ta đã được lập từ trước vô cùng, từ khi nguyên thủy, trước khi dựng nên trái đất. Lúc chưa có vực sâu, chưa có nguồn chảy nước nhiều, thì ta đã sanh ra rồi. Trước khi núi non chưa lập nên, và các gò nổng chưa có; trước khi Ðức Giêhôva chưa có dựng nên đất, đồng ruộng, và tro bụi đầu tiên của thế gian, thì ta đã sanh ra rồi.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%C3%B3p/Ch%C6%B0%C6%A1ng_38 |title=Gióp 38:1-7 |publisher= |quote= Khi ta (Đức Chúa Trời) đặt nền trái đất, thì ngươi (Gióp) ở đâu? Nếu ngươi thông sáng, hãy tỏ bày đi.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%C3%B3p/Ch%C6%B0%C6%A1ng_38 |title=Gióp 38:21 |publisher= |quote= Không sai, ngươi (Gióp) biết mà! vì ngươi đã sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy làm nhiều thay|url-status=live}}</ref> Không chỉ riêng Salômôn và Gióp mà tất cả mọi người sinh ra trên trái đất này đều ở trên lập trường giống như vậy. Thế giới này giống như nơi trú ngụ tạm thời, khi linh hồn mặc xác thịt khoảng 100 năm rồi rời đi.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thi%C3%AAn/Ch%C6%B0%C6%A1ng_90 |title=Thi Thiên 90:10 |publisher= |quote= Tuổi tác của chúng tôi đến được bảy mươi, Còn nếu mạnh khỏe thì đến tám mươi; Song sự kiêu căng của nó bất quá là lao khổ và buồn thảm, Vì đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.|url-status=live}}</ref> [[Đavít]] và [[Giacốp]] cũng miêu tả cuộc sống trên trái đất này giống như kẻ khách và bộ hành trên đất.<ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1ng_th%E1%BA%BF_k%C3%BD/Ch%C6%B0%C6%A1ng_47 |title=Sáng Thế Ký 47:8-9 |publisher= |quote= Pharaôn hỏi Giacốp rằng: Ngươi hưởng thọ được bao nhiêu tuổi? Giacốp tâu rằng: Những năm tôi sống ở đời phiêu lưu hết thảy là một trăm ba mươi năm.|url-status=live}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://vi.wikisource.org/wiki/Thi_Thi%C3%AAn/Ch%C6%B0%C6%A1ng_119 |title=Thi Thiên 119:54 |publisher= |quote= Các luật lệ Chúa làm bài hát tôi Tại nhà tôi ở làm khách lạ|url-status=live}}</ref>


{{인용문5 |내용= Hết thảy những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều hứa cho mình; chỉn trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là '''kẻ khách''' và '''bộ hành''' trên đất. Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đương đi tìm nơi '''quê hương'''. Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở '''trên trời'''; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%AA-b%C6%A1-r%C6%A1/11 Hêbơrơ 11:13-16]}}
{{인용문5 |내용= Hết thảy những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều hứa cho mình; chỉn trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là '''kẻ khách''' và '''bộ hành''' trên đất. Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đương đi tìm nơi '''quê hương'''. Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở '''trên trời'''; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%AA-b%C6%A1-r%C6%A1/11 Hêbơrơ 11:13-16]}}
Dòng 20: Dòng 20:
===Mẹ trên trời===   
===Mẹ trên trời===   
Nếu có cha và con cái thì cũng phải có mẹ. Cha, mẹ và con cái có mối quan hệ mật thiết với nhau, nghĩa là dù chỉ một danh phận không tồn tại thì những danh phận khác không thể được xác lập. Tương tự như vậy, nếu chỉ có Cha trên trời thì không có lý do gì để sử dụng những danh xưng trong gia đình như cha, con trai hoặc con gái để gọi mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và các thánh đồ. Nếu có Cha trên trời thì nhất định cũng có Mẹ trên trời.   
Nếu có cha và con cái thì cũng phải có mẹ. Cha, mẹ và con cái có mối quan hệ mật thiết với nhau, nghĩa là dù chỉ một danh phận không tồn tại thì những danh phận khác không thể được xác lập. Tương tự như vậy, nếu chỉ có Cha trên trời thì không có lý do gì để sử dụng những danh xưng trong gia đình như cha, con trai hoặc con gái để gọi mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và các thánh đồ. Nếu có Cha trên trời thì nhất định cũng có Mẹ trên trời.   
{{인용문5 |내용= Nhưng thành Giêrusalem ở trên cao là tự do, và ấy là ''mẹ''' chúng ta. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/Ga-la-ti/4 Galati 4:26]}}
{{인용문5 |내용= Nhưng thành Giêrusalem ở trên cao là tự do, và ấy là '''mẹ''' chúng ta. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/Ga-la-ti/4 Galati 4:26]}}


“Trên cao” nghĩa là vương quốc trên trời. Kinh Thánh tiết lộ sự tồn tại của Mẹ trên trời được biểu tượng bởi [[Giêrusalem]]. Giống như có mẹ phần xác thì cũng có Mẹ phần linh hồn. Gia đình trên trời được hình thành trọn vẹn khi có Cha, có các con cái và có Mẹ. Vương quốc trên trời là quê hương của linh hồn chúng ta, nơi có Cha trên trời, Mẹ trên trời và các anh chị em phần linh hồn chung sống với nhau.
“Trên cao” nghĩa là vương quốc trên trời. Kinh Thánh tiết lộ sự tồn tại của Mẹ trên trời được biểu tượng bởi [[Giêrusalem]]. Giống như có mẹ phần xác thì cũng có Mẹ phần linh hồn. Gia đình trên trời được hình thành trọn vẹn khi có Cha, có các con cái và có Mẹ. Vương quốc trên trời là quê hương của linh hồn chúng ta, nơi có Cha trên trời, Mẹ trên trời và các anh chị em phần linh hồn chung sống với nhau.
Dòng 28: Dòng 28:
[[file:히브리어 사전 엘로힘.jpg |thumb | px |Logos Strong Cord<ref>Những con số gắn liền với từ ngữ giúp việc học Kinh Thánh nguyên ngữ dễ dàng hơn</ref> Từ điển tiếng Hêbơrơ 430.  Êlôhim]]
[[file:히브리어 사전 엘로힘.jpg |thumb | px |Logos Strong Cord<ref>Những con số gắn liền với từ ngữ giúp việc học Kinh Thánh nguyên ngữ dễ dàng hơn</ref> Từ điển tiếng Hêbơrơ 430.  Êlôhim]]
Kinh Thánh chứa đựng lịch sử [[Sáng tạo 6 ngày|sáng tạo trời đất]], miêu tả cảnh Đức Chúa Trời dựng nên loài người. Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình của Ngài. Vì loài người được dựng nên theo hình của Đức Chúa Trời nên có thể hiểu được về [[Hình ảnh của Đức Chúa Trời|hình của Đức Chúa Trời]] (Tiếng Anh: Image of God, tiếng Hêbơrơ: צֶלֶם אֱלֹהִים, tiếng Latinh: Imago Dei) thông qua loài người, là kết quả của sự sáng tạo.  
Kinh Thánh chứa đựng lịch sử [[Sáng tạo 6 ngày|sáng tạo trời đất]], miêu tả cảnh Đức Chúa Trời dựng nên loài người. Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình của Ngài. Vì loài người được dựng nên theo hình của Đức Chúa Trời nên có thể hiểu được về [[Hình ảnh của Đức Chúa Trời|hình của Đức Chúa Trời]] (Tiếng Anh: Image of God, tiếng Hêbơrơ: צֶלֶם אֱלֹהִים, tiếng Latinh: Imago Dei) thông qua loài người, là kết quả của sự sáng tạo.  
{{인용문5 |내용= Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1ng_th%E1%BA%BF_k%C3%BD/Ch%C6%B0%C6%A1ng_1 Sáng Thế Ký 1:27]}}
{{인용문5 |내용= Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như '''hình Đức Chúa Trời'''; Ngài dựng nên '''người nam''' cùng '''người nữ'''. |출처= [https://vi.wikisource.org/wiki/S%C3%A1ng_th%E1%BA%BF_k%C3%BD/Ch%C6%B0%C6%A1ng_1 Sáng Thế Ký 1:27]}}


Khi sáng tạo loài người giống hình của Đức Chúa Trời thì kết quả là người nam và người nữ được tạo ra. Điều này là cơ sở cho sự tồn tại của Đức Chúa Trời mang hình nam và Đức Chúa Trời mang hình nữ. Đức Chúa Trời mang hình nam là Cha trên trời, và Đức Chúa Trời mang hình nữ là Mẹ trên trời. Vì có Đức Chúa Trời là Cha trên trời và Mẹ trên trời nên loài người cũng được sáng tạo theo hai hình là nam và nữ. Trong câu Kinh Thánh ngay trước đó, cơ sở cho sự tồn tại của hai Đấng Đức Chúa Trời đã được làm chứng rõ ràng.  
Khi sáng tạo loài người giống hình của Đức Chúa Trời thì kết quả là người nam và người nữ được tạo ra. Điều này là cơ sở cho sự tồn tại của Đức Chúa Trời mang hình nam và Đức Chúa Trời mang hình nữ. Đức Chúa Trời mang hình nam là Cha trên trời, và Đức Chúa Trời mang hình nữ là Mẹ trên trời. Vì có Đức Chúa Trời là Cha trên trời và Mẹ trên trời nên loài người cũng được sáng tạo theo hai hình là nam và nữ. Trong câu Kinh Thánh ngay trước đó, cơ sở cho sự tồn tại của hai Đấng Đức Chúa Trời đã được làm chứng rõ ràng.